Chủ Nhật, 4 tháng 11, 2012

Ít người biết: Hồ Xuân Hương & Phật Giáo - Tiến sỹ Phạm Trọng Chánh

Hồ Xuân Hương & Phật Giáo -- HoPhap.Net
Hồ Xuân Hương & Phật Giáo -- HoPhap.Net

Hồ Xuân Hương & Phật Giáo
TS Phạm Trọng Chánh

Điều nghịch lý trong thơ truyền khẩu gán cho Hồ Xuân Hương là Xuân Hương thường đi chùa, cuối đời có đi tu một thời gian, nhưng trong thơ lại «ghét» sư đến mức thậm tệ gọi sư là «lũ trọc đầu», «phúc đức như ông được mấy bồ?», «hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?», sư «chái gió cho nên phải lộn lèo», thậm chí gán cho Hang Thánh hoá Chùa Thầy, thánh tích thiêng liêng của đồng bào Phật tử Việt Nam, nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh cởi bỏ nhục thân để đầu thai thành Vua Lý Thần Tông là cái dương vật : «một đố dương ra biết mấy ngoàm», «một sư đầu trọc ngồi khua mõ, hai tiểu lưng tròn đứng giữ am».

Một Hồ Xuân Hương mắng bọn dốt đến cửa thiền, là «phường lòi tói», đề thơ dỡ làm dơ bẩn nhà chùa : «muốn sống đem vôi quét trả đền», mà lại đồng thời làm thơ bẩn, bôi nhọ nhà chùa, viết những câu thơ tối tăm, gượng ép : «đáo nơi neo», «trưa trật nào người móc kẻ rêu», một phụ nữ đến chùa mà mang «rượu lưng hồ» uống, một trong năm giới cấm nhà Phật.

Những câu thơ bẩn thỉu, hạ cấp, gượng ép, hiểu biết kém cỏi về Phật Giáo, chỉ biết đả kích Phật Giáo qua bề ngoài : «sư đầu trọc lóc», «áo không tà»,» lần tràng hạt đấm lại đeo», «giọng hi ha».. hay kết án những điều vô chứng cớ : «vãi núp sau lưng sáu bảy bà». Sư mà có đến sáu bảy bà vợ núp sau lưng mà làng xóm, đồng bào Phật tử để yên cho sao?

Những bài thơ tệ hại ấy, những câu thơ nguyên tác bị sửa đổi, được gán cho Hồ Xuân Hương từ một thế kỷ nay, nhiều nhà văn học tiếng tăm cũng không dám suy xét, nguồn gốc từ đâu, không ai dám đụng đến, mà còn say sưa ca tụng như những câu thơ «cách mạng» giải phóng phụ nữ, đập đổ tư tưởng phong kiến? Có những câu thơ dỡ thậm tệ, không có gì là văn chương, nhưng chỉ vì được gán cho Hồ Xuân Hương, mà người đời cứ nhắm mắt khen hay!

Những khám phá các văn bản: Lưu Hương Ký, Hương Đình Cổ Nguyệt Thi tập, thơ Vịnh Hạ Long, thơ Vịnh Cảnh Đồ Sơn.. của các Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn, Giáo Sư Trần Văn Giáp, Học Giả Trần Thanh Mại, cụ Cử Nguyễn Văn Tú tại các thư viện trong nước và ngoài nước đã đánh đổ những bài thơ ngụy tạo gán cho Hồ Xuân Hương nhằm đánh đổ Phật Giáo mới sáng tác vào đầu thời Pháp thuộc cuối thế kỷ 19 : Hang Thánh hóa, Chùa Quán Sứ, Vịnh ni sư, Chùa xưa, Hang cắc cớ, Sư bị ong châm, Sư bị làng đuổi…

Trái với những bài thơ ngụy tạo, dốt đặc cán mai về Phật Giáo, những bài thơ có chứng cớ tác giả Hồ Xuân Hương đề vịnh cảnh chùa ở Đồ Sơn cụ Trần Văn Giáp tìm thấy chép trong Phượng Sơn Từ Chí Lược, GS Cao Xuân Huy cũng tìm thấy trong thư viện Cao Xuân Dục, bài thơ đề Trấn Quốc Tự chép trong Hương Đình Cổ Nguyệt tìm thấy trong tủ sách gia đình cụ Trần Xuân Hảo ở xã Hải Trung, huyện Hải Hậu, Nam Hà. Thơ Hồ Xuân Hương vịnh cảnh Hạ Long giáo sư Hoàng Xuân Hãn tìm thấy trong kho sách Hán Nôm thư viện Quốc Gia Paris.. cho ta thấy Hồ Xuân Hương là «một phụ nữ học rộng và thuần thục» như lời Tốn Phong viết bài tựa Lưu Hương Ký, bà tinh thông Nho, Phật, Lão, nhất là về Phật Giáo bà có một kiến thức khá rộng và uyên bác.

Tiêu biểu cho tư tưởng, kiến thức Hồ Xuân Hương về Phật Giáo là 9 bài thơ Vịnh Cảnh Đồ Sơn. Chín bài thơ này Hồ Xuân Hương làm trong khoảng thời gian 1816-1818 lúc chung sống với Tham Hiệp Yên Quảng Trần Phúc Hiển. Hồ Xuân Hương đi thăm các thắng cảnh chùa Đông Sơn, thời ấy đã hoang tàn, do cuộc khởi nghĩa nhà sư Phạm Ngọc (1418-1420) chống nhà Minh đô hộ, cuộc khởi nghĩa này được sách sử nhà Minh chép nhiều (Minh Thực Lục. Quan hệ Trung Quốc—Viêtnam thế kỷ XIV-XVII ,nxb Hà Nội 2011) ông Hồ Bạch Thảo, đã bỏ công tìm lục trong thư viện Hoa Kỳ, và dịch các đoạn Minh Sử sử liên hệ đến Việt Nam mà trong sử ta chỉ ghi vài dòng. Cuộc khởi nghĩa quy tụ hàng vạn người dựa thế Đồ Sơn, vịnh Hạ Long làm điêu đứng nhà Minh, nhưng rồi bị dập tắt trong máu lửa, chỉ còn lại các cảnh chùa trên núi Đông Sơn bị hoang tàn.

Truyền thống giữ nước của các nhà sư và Phật Tử Việt Nam, bắt nguồn từ những năm tháng đen tối thời Bắc Thuộc, chung một truyền thống với các phái thiền Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên để thư giản sau khi ngồi thiền các nhà sư luyện tập võ nghệ, nội công. Chùa Thiếu Lâm Tự nơi Bồ Đề Đạt Ma đến hành đạo cũng là nơi phát xuất võ nghệ Thiếu Lâm, nguồn cội các phái võ nghệ. Các phái thiền truyền đến Việt Nam, chung truyền thống đó, các nhà sư Tây Trúc, Trung Quốc đến truyền đạo. Các phái võ truyền qua đệ tử hay gia đình, một người Việt Nam lý tưởng trong xã hội ngày xưa là «văn võ song toàn», các quan Việt Nam từ quan văn sang quan võ là chuyện bình thường.

Thi hào Nguyễn Du, sau khi đậu Tam Trường, nhậm chức đầu tiên là chức quan võ: Chánh Thủ Hiệu Quân Hùng Hậu Hiệu, chỉ huy đội quân tinh nhuệ nhất trấn Thái Nguyên, đại diện cho binh quyền của anh, là Nguyễn Khản, Thượng Thư Bộ Lại kiêm trấn thủ Thái Nguyên, Hưng Hóa với sự trợ giúp của Cai Gia tức Nguyễn Đại Lang, nhân vật này có tên trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí.. Nguyễn Huy Tự tác giả Hoa Tiên, con rễ Nguyễn Khản, quan văn dạy học cho Thế Tử chúa Trịnh, chuyển sang quan võ làm quan Trấn Thủ Hưng Hóa. Tiến Sĩ Ngô Thời Nhậm, Nguyễn Công Trứ từng giữ chức Binh Bộ Thượng Thư. Thi hào Cao Bá Quát, khi triều đình không xứng đáng đã dựng cờ khởi nghĩa «Bình Dương, Bồ Bản vô Nghiêu Thuấn, Mục Dã, Thanh Điền hữu Võ Thang». Sách sử Việt Nam ít chép việc học tập võ nghệ, và nghề võ cũng như các nghề khác trong xã hội Việt Nam thường được giữ bí mật chỉ truyền cho đệ tử, hay con trai.

Thời nhà Lê mới thấy xuất hiện Trường Giảng Võ và các kỳ thi Võ, trước đó chỉ thấy từ nhà chùa Việt Nam xuất hiện ra các đệ tử trở thành võ tướng, nhà sư lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa chống xâm lăng, trước cả Trung Quốc, sự kiện nhà sư Chu Nguyên Chương, lãnh đạo đánh đuổi Mông Cổ, nhà Nguyên lập ra nhà Minh ( 1368-1566). Điều tất yếu của các võ tướng là phải rất giỏi võ, có sức mạnh hơn người, và đọc sách binh thư : nhà chùa là nhà trường dạy người Việt biết đọc, dạy văn và dạy võ, từ nhà chùa đã đào tạo Lý Bí, Lý Phật Tử, nhà Tiền Lý (544-602) thành lập nước Vạn Xuân, riêng Lý Phật Tử cai trị trong 30 năm, nhà chùa đã đào tạo tướng quân Lý Công Uẩn thành lập nhà Lý (1010-1225) hai trăm năm văn minh rực rỡ, và đến nhà Trần, ông vua Phật Trần Nhân Tôn, ba lần lãnh đạo nhân dân chiến thắng quân Mông Cổ, xâm lược từ Á sang Âu.

Nhà chùa là trường học, nhân dân «phân nửa nước là sư sãi», có những chùa chứa đến 5, 10 ngàn người, họ không phải là ... đọc hết chi tiết bài có giá trị nguyên cứu này tại link: Hồ Xuân Hương & Phật Giáo - Tiến sỹ Phạm Trọng Chánh


Source: www.HoPhap.Net

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét